Nguyễn Chí Thiện (b. 1939 – present)

***

Rợ Tàu ghi nhớ ai ơi!
Làm con nước Việt muôn đời chớ quên.
Non sông muốn được lâu bền,
Tận trung báo quốc, không sờn quyết tâm.
Đất trời thấu tỏ tấm lòng,
Xin vì non nước gắng công báo đền.

***

Đả đảo Trung Quốc xâm lược Việt Nam!

Đả đảo ĐCSVN bán nước!

Toàn dân quyết tâm lật đổ ĐCSVN phản quốc, bảo vệ biên cương phía Bắc!

Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Sa & Trường Sa là của Việt Nam.

***

Đả đảo Trung Quốc xâm lược

Giòng máu anh hùng

************************************************************

*

************************************************************

Những bộ óc tuyệt vời, nhưng rất trẻ. Mời xem phim tài liệu trong link dưới đây.

http://vimeo.com/3340713

************************************************************

12/29/2010

T/g: Vu Trieu Nghi

Vận nước nổi trôi, dòng đời nào khác chi giông bão cùng với nghiệt ngã của chiến tranh, những bất hạnh dồn dập đến với gia đình chúng tôi.

1945, cậu em trai tôi chào đời vào năm đói Ất Dậu. Bố Vũ Thế Hùng bị Việt Minh bắt. Mẹ tôi, nào khác hạt bụi giữa cuồng phong, bỗng một sớm một chiều chấp nhận lầm than, tảo tần, buôn thúng bán bưng, vất vả đi theo nuôi bố qua bao nhiêu trại tù. Sau này bố tôi tâm sự “không có mẹ thì bố mất xác đã lâu, còn đâu tới ngày hôm nay mà gặp các con nữa”.

Không liên hệ gia đình, không là bạn tù, có lẽ mẹ tôi là người biết về Nguyễn Chí Thiện sớm nhất là vì vậy.

Ba anh em chúng tôi lớn lên bằng tài chánh eo hẹp, lần lượt cô dì này đến chú bác khác cưu mang. Ôi, những ngày vàng son thuở ấy, một “giấc Nam Kha khá bất bình…”. Năm người trong gia đình chúng tôi, mỗi người một ngả, thậm chí hơn cả nửa thế kỷ rồi mà cũng hiếm khi xum họp dưới một mái nhà kể từ khi “đất bằng dậy sóng” 1945. Ông anh huynh trưởng của tôi, năm 5 tuổi đã nhập học trường Dòng, anh lớn đi theo tiếng Chúa gọi, nay trở thành Linh mục Mathieu Vũ Khởi Phụng của biến cố Giáo Xứ Thái Hà, Hà Nội, mà gần đây báo chí đã tốn khá nhiều giấy mực viết về anh.

Ngày em đi, anh niềm vui Chủng viện,
Buổi em về Linh mục đã phong sương!!

Nỗi đau còn hằn mãi trong tâm tưởng, tôi đâu ngờ rằng cậu em trai duy nhất của tôi, một ngày tháng Tư 1975, lại nối gót bố 30 năm xưa cùng với Sài Gòn hấp hối, em tôi trở thành người tù cải tạo với gần 8 năm dài bóc lịch!

Tôi ư? Một cánh bèo trôi dạt mãi trên sông, hay phận mình là áng mây phiêu bạt, để rồi, rời quê hương thật sớm, bỏ lại cậu em trai dãi nắng dầm sương trong quân ngũ, bỏ lại bố mẹ già ở miền Bắc xa xôi, tôi đâu còn nhớ mặt, ngày ly tan tôi mới hai tuổi đầu. Bấy giờ một mình vượt Thái Bình Dương :

Đất Mỹ,
Trời Âu xa lắm
Nơi rừng sâu
Người cha rầu rầu
Thường đem ảnh con mình ra ngắm

Thi sỹ Nguyễn Chí Thiện

Đó là những dòng thơ Nguyễn Chí Thiện diễn tả về tôi khi thấy bố già ngắm hình đứa con gái. Anh làm quen với tên T.N. từ đấy, bởi đó là niềm vui của bố và của một anh tù thuở “mắt trũng chân phù” trong trại tù Phong Quang.

Đất Mỹ, trời Âu xa lắm, nổi trôi mãi chẳng ngừng. Đây những ngày xuân xa xứ, hồn tả tơi tựa những cánh hoa đào rơi lả chả bên dòng Potomac đẫm rong rêu! Đây trời Arlington buốt giá, đôi bờ tuyết phủ. Từ mùa hạ Chicago nắng cháy đỏ da, tôi trôi dạt về chiều El Paso mưa buồn xót mắt. Cứ thế tôi đã đánh mất bao nhiêu mùa xuân trong đời, rồi tôi dừng lại đây với hơn 18 mùa sương phủ trên chiếc cầu lạnh giá Cựu Kim Sơn. Để rồi “xin nhận nơi này làm quê hương”. Một ngày tỉnh mộng nghe tim mình ray rứt thương về mảnh đất hình chữ S. Mùa xuân 1992, tôi trở về cố quận.

Lòng như cơn bão, giữa rừng người đứng ở phi trường Tân Sơn Nhất kia, có bố mẹ già còm cõi mà gần nửa thế kỷ tôi mới được tái ngộ. Có ông anh trịnh trọng trong bộ áo Dòng, có cậu em trai gầy gò răng rụng, với mái tóc bạc màu tù cải tạo.

Bố đón tôi bằng dòng nước mắt lăn dài trên khuôn mặt hom hem, bàn tay gầy guộc đặt trên vai tôi. Bố hỏi “Con có nghe câu thơ này chưa”? Rồi bố đọc chậm rãi :

Thân không trời đất mà mưa gió
Lòng chẳng gươm đao cũng chiến trường

Thế đó! Là phút giây hội ngộ của gia đình chúng tôi lần đầu tiên trong đời, đủ được 5 người.

Tôi xa Hà Nội không phải “năm em mười tám khi vừa biết yêu” mà là khi cô bé 11 tuổi phải rời trường Saint Paul, nay rất gần Tòa Khâm Sứ. Tuổi thơ tôi di cư vào Nam với bao nỗi nhọc nhằn. Bây giờ Hà Nội xưa của tôi hiện ra trước mắt, sao bỗng dưng tôi nghe vị mặn ở bờ môi. Một Hà Nội đưa tôi vào lạc lõng, một Hà Nội của Trịnh Công Sơn với cây cơm nguội vàng và hồn tôi ngỡ ngàng xa lạ. Tôi đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác khi đặt chân lên thềm nhà của bố mẹ. Căn nhà nhỏ mốc meo rêu với mùi ẩm mốc khó chịu. Tất cả hiện ra cảnh nghèo khó tới rợn người. Thế mà bố mẹ tôi hân hoan ra mặt. Bố cười bảo tôi:

Con ở ngoại quốc về chắc thấy chỗ này ghê rợn lắm. Từ ở tù ra gần cả chục năm rồi, bố mẹ sống đạm bạc đã quen, nhà thờ Hàm Long ngay đầu phố, tiện lắm. Bố muốn con hiểu rằng, căn nhà nghèo khó này đã từng tiếp đón những người bạn trí thức tuyệt luân, lại đầy nhân ái và tình người. Bố mẹ yêu những người ấy như ruột thịt. Con sẽ lần lượt gặp họ, ai cũng muốn gặp con đấy, vì bố đã nói nhiều về con trong những năm tháng tù đày. Này nhé, nhiều tên tuổi lừng danh con nên kính phục -Phùng Cung, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Chí Thiện và còn nhiều nữa trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, con có nghe tên họ chưa”?

* Nghe thì nghe nhiều rồi đó, nhưng chả bao giờ tôi lại nghĩ rằng, mình may mắn gặp được những nhân tài này. Rồi bố giới thiệu: Nguyễn Chí Thiện, người bạn tù lâu năm, người bạn vong niên của bố.

Tôi quan sát anh, định cất tiếng chào “Thưa chú”… nhưng anh gạt đi -”Gọi bằng anh nhé. Chị quên là tôi gọi bác là bác kia mà, tôi không lớn hơn chị lắm đâu”. Tôi ngồi lắng nghe bố đọc thơ anh làu làu, rồi hai người say sưa luận bàn thơ phú. Tôi không quen với thể thơ của Nguyễn Chí Thiện, nên im lặng nghe bố kể:

Con chưa biết nó đâu, dáng dấp lừng khừng là thế, lại gầy ốm tong teo như cây sậy, mà can đảm không lường, bố phục nó, dám một mình vào sứ quán Anh bất chấp nguy hiểm, miễn sao thơ nó được lọt ra nước ngoài. Còn ở trong tù mà nó dám làm thơ có thể chết người con ạ. Trong tù, đứa nào cũng đói rã ruột, thế mà đứa nào cũng tử tế với bố, nhường từng miếng khoai sùng, sắn sượng cho bố vì thấy bố già nua. Chúng nó là những anh hùng bất chấp gian nan, bố phục lắm”.

Rồi bố cười: T.N. là đề tài cho Thiện nó làm thơ đấy. Tôi bắt đầu có chút cảm tình với anh, bỗng anh ngập ngừng hỏi tôi : “Muốn nhờ chị một điều, không biết chị có nhận lời không”? Tôi e ngại -”Anh cứ nói”.

Chị có thể đem tập thơ của tôi ra ngoại quốc được không ? Ít bài thôi”.

Tôi chưa biết trả lời ra sao thì anh lại tiếp: “Gặp bác và chị thế này, ngoài kia khối con mắt dòm ngó đấy, nhưng tôi ở tù quen rồi, nên cóc sợ”.

Câu nói của anh làm tôi hoảng vía, bởi năm 1992 nào phải như bây giờ, bất trắc nào cũng có thể xảy ra, nên tôi thẳng thắn từ chối :

“Thôi anh ạ, đừng buồn nhé. TN. không dám đem đâu. Xin cho em hai chữ bình an để trở về Mỹ trót lọt”.

Một thoáng thất vọng trong mắt anh : “Thôi, thế này, Trần Nhu chắc là có tập thơ của tôi đấy, chị hỏi hộ ông ấy nhận được chưa”?

– “Vâng, chuyện đó thì được”.

Người kế tiếp tôi gặp là Phùng Cung, tôi đọc được chút gì trìu mến cho tôi nơi anh. Bằng một mẩu giấy màu vàng nhàu nát, anh ứng khẩu rồi viết luôn:

Bé Triều Nghi, bé Triều Nghi,
Mắt cười, đọng vẻ phân kỳ ngày xưa.

Mẩu giấy đó tôi còn giữ mãi.

Người bạn kế tiếp của bố là Nguyễn Hữu Đang. Ông không làm thơ tặng tôi, chỉ bắt tay tôi cười khan rồi nằm dài chửi đổng chế độ.

Ngày từ biệt bố mẹ trở lại Mỹ, bố nhắn với theo:

Nguyễn Chí Thiện khá lắm. Thằng ấy khí khái anh hùng, con giúp được gì cho nó thì làm, nó hết lòng với bố trong tù đấy”.

Trở về Mỹ, cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại bắt đầu quyên góp để yểm trợ cho anh và tôi thường xuyên có mặt. Thời gian thấm thoắt, có lẽ thơ anh bắt đầu có tiếng vang bên trời Âu. Năm anh đến bến bờ tự do, cộng đồng Việt khắp nơi đón rước anh, tên anh nổi như cồn qua hàng loạt bài diễn văn. Tôi mừng thầm.

Nguyễn Chí Thiện nay đã nổi tiếng, và tôi tự nhủ: Chắc anh đã quên tôi. Thật cảm động, tôi nghĩ lầm về anh, cú điện thoại đầu tiên vồn vã: –“T.N. đấy ạ, Thiện đây ! Nhờ thưa với bác, Thiện tới Mỹ bằng an nhé”!

Một niềm vui lớn lao cho tôi khi thấy anh toại nguyện. Tôi cười, mừng anh, đồng thời nhắn rằng, T.N. sẽ không có mặt trong những buổi diễn thuyết của anh, bởi tôi không thích đám đông và không làm chính trị. Từ đó, mỗi lần về Bắc Cali, dù không gặp nhau thì vẫn là những lời thăm hỏi chí tình.

Nguyễn Chí Thiện, mỗi lần gặp anh là tôi mường tượng ra lần đầu hội ngộ với anh, với bố già trong căn nhà nghèo khó ở Hà Nội, và tôi đã từng khuyên anh “cẩn thận nhé. Nay anh làm dâu trăm họ rồi đấy”, vào năm 95 khi vừa đặt chân trên đất Mỹ.

Nay thì câu nói ấy đã hiệu nghiệm. Ở một nơi tự do ngôn luận, tự do báo chí trên mảnh đất quá nhiều tự do này. Tôi biết rằng anh đang gặp dữ nhiều, lành ít. Tôi từ chối không đọc những bài báo nói không trúng về anh. Hôm qua tình cờ gặp một nhà thơ cao tuổi, bác Hà Thượng Nhân, bác bảo: “Sao cô không lên tiếng cho Nguyễn Chí Thiện”. Tôi thiết nghĩ, tôi lên tiếng là đã quá thừa, bởi nhà văn Phan Nhật Nam, giáo sư Jean Leaby đã viết quá đầy đủ về anh rồi. Sự thật vẫn là sự thật. Anh Thiện ơi, càng cao danh vọng càng dày gian nan ! Thôi thì, đó cũng là định luật sống.

Viết những dòng này cho anh, bố già nay đã miên viễn, Nguyễn Hữu Đang cũng vô thường, mà Phùng Cung thì đã “hạt bụi nào hóa kiếp thân anh”. Chỉ còn lại một Nguyễn Chí Thiện ở tuổi hoàng hôn, thế mà cây muốn lặng sao gió không ngừng. T.N. nhớ mãi lời bố khi giới thiệu anh “Thằng ấy khí khái, anh hùng, con có dịp hãy đọc thơ nó, bố phục nó lắm”.

Đấy, lời một người bạn tù nằm xuống chắc đã làm anh vui. Viết những dòng này gửi tới anh khi ngọn gió đầu đông đón chào mùa xuân trên đất Mỹ, tôi thấy thương bố V.T.H. vô cùng, thương những người chiến sĩ chiến đấu bằng ngòi bút cho lý tưởng tự do, trong đó có anh Nguyễn Chí Thiện.

Ta đau trời Phong Quang
Ta giận tràn Vĩnh Phú
Oán hờn một thuở Lao Kai
Từ ta lưu lạc dấu giày
Lời thơ phẫn nộ vẫn say sắc thù
Thương ai ngưỡng cửa ngục tù
Xác thân nghiệt ngã đời hư ảo đời

Những dòng thơ này xuất phát tự đáy lòng tôi gửi tới bố V.T.H. và các anh cùng chung chí hướng. Tôi nợ anh một lời tạ lỗi năm nào đã không dám đưa thơ anh đi. Tôi nợ anh bao ân tình cho miếng khoai mẩu sắn anh nhường cho bố tôi dạo ấy. Mùa xuân này xin anh nhận nơi tôi một đóa hồng cho người tôi ngưỡng mộ : nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, người bạn vong niên của bố tôi mà sinh thời, bố từng thán phục và mến thương.

Tác giả: Triều Nghi (bài do một thân hữu gửi tới)
————————————————

Và sau đây là bài thơ Nguyễn Chí Thiện viết tại trại tù Phong Quang: Bóng Hồng Dương Thế:

BÓNG HỒNG DƯƠNG THẾ
(Tặng Triều Nghi)

Có người thiếu nữ mắt bồ câu
Lưu lạc, ly hương từ độ xuân thì
Đất Mỹ, trời Âu xa lắm
Nơi rừng sâu
Người cha rầu rầu
Thường đem ảnh con mình ra ngắm
Đêm tù
Âm khí âm u
Những chàng trai mắt trũng chân phù
Thơ thẩn cầm nàng trong tay
Cầm cả mùa xuân hạnh phúc
Bóng hồng dương thế xa bay.

NGUYỄN CHÍ THIỆN

************************************************************

  
Mặt Thật
Một cụ già 50 tuổi
  
T/g: Bui Tin  
  
Ở ngoài nước, khá nhiều người Việt nam biết đến Nguyễn Chí Thiện. ở trong nước, ngược lại rất nhiều người không biết anh là ai cả. Báo chí trong nước không hề nhắc đến anh, trong khi tin tức về anh, ảnh của anh, thơ của anh, trả lời phỏng vấn của anh và sách in gần 200 bài thơ của anh được phố biến khá rộng ở ngoài nước. Điều rất tiếc là tuổi trẻ ở trong nước có thể nói cho đến nay, chẳng biết gì về anh cả! Cho nên xin được nói đôi điều về anh. Anh năm nay chừng 50 tuổi. Hơn 27 năm trong nhà lù của chế độ ‘Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc’ (!). Nghĩa là cả thời thanh xuân và trưởng thành của một con người ở trong 4 bức tường, với công việc gần như khổ sai. Anh mất hết, mất học vần, tuy 20 tuổi anh học cực giỏi, từng đọc sách nhiễu, thơ văn khá, tiếng Pháp nói và viết rất chuẩn. Mất nghề nghiệp, nay hỏi anh khi đã 50 tuổi anh làm nghề gì? Nghề ngồi tù! Mất hạnh phúc gia đình, không vợ, không con, 50 tuổi mà trông như cụ già 70, mắt mờ, đi lại khó, đau khớp, buộc óc, đau dạ dày, yếu tim, đủ thứ. Anh mất sức khỏe, mất tuổi trẻ. Mất quá nhiều thứ, mất hết cả đời người. Anh nói chậm, vì 30 năm không có bạn để trao đổi tâm tình.Tội anh là gì? Theo một nguồn chưa đầy đủ cậu học sinh Hải phòng rồi Hà nội (trường Albert Sarraut) ấy từng đọc Voltaire, Victor Hugo, Diderot, Jean Jacques Rousseau… và hiểu tự do quý giá ra sao. Anh khoái đọc những tờ Giai Phẩm đầu năm 1956, chuẩn bị ra tờ báo Vì Dân thì đầu năm 1958 anh bị bắt. Các vị ở sở công an Hải Phòng không thể chịu nổi một cậu học sinh non choẹt dám nói là nước ta chưa có tự do. Rằng các ông độc đoán! Rằng quyền ăn nói là vốn có của mỗi người khi sanh ra trên đời, không thể bị lược đoạt! ‘Một tên phản động bướng bỉnh!’ Thế là anh bị coi là phần tử cực kỳ nguy hiểm! Và anh được gửi lên Hà nội. Lại khẩu cung, lại: ông nói ông nghe, tôi nói tôi nghe. Họ, các quan chức an ninh, không chịu anh, tất nhiên! Còn anh, anh không đầu hàng họ. Anh tự tin, và tin ở chân lý. Đã có lúc họ định xử án để bỏ tù anh. Nhưng chẳng có một bằng chứng gì về bất cứ một hoạt động gì của anh cả. Một gia đình nhà giáo, cầu học sinh say mê đọc sách, học giỏi, ít giao du, moi đâu ra tội? Tạo đâu ra chứng cớ. Đem ra xử thì chỉ cãi lý, mà họ không có lý.

Sau gần 20 năm giam anh, chế độ ‘cho’ anh tự do vào năm 1978, không xét xử, không xin lỗi, chỉ đe và dọa: về nằm yên, ngo ngoe là chết! Anh không nằm yên.
Vũ khí chống chọi lại độc đoán là thơ. Anh viết dõng dạc như một tuyên ngôn:

Giữa lao tù, bệnh hoạn, cơ hàn
Thơ vẫn bạn, và thừa dư sức bạn.
Anh nói rõ:

 

Thơ của tôi không có gì là đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu, ho lao.
Thơ của tôi không có gì là cao
Như chết chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như đảng đoàn, lãnh tụ, trung ương
Thơ của tôi kém phần tướng tượng
Nó thật như tù, đói, đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ…
Giọng thơ phẫn uất, hờn căm là do họ gây nên trong anh, ai cũng dễ thông hiểu điều ấy. Trong tù, anh suy nghĩ:

 

Từ vượn lên người mất mấy triệu năm
Từ người xuống vượn mất bao năm?
Xin mời thế giới tới thềm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẳm
Tù nhân ở truồng từng bày đứng tắm
Khoai sắn tranh dành, cùm, bạn, chém, băm…
Đánh đập tha hồ, chết quẳng chuột gặm.
Anh có những bạn tù lên 8 tuổi:

 

Một tay em trổ. ‘Đời xua đuổi ‘
Một tay em trổ. ‘Hận vô bờ’
Thế giới ơi người có thể ngờ.
Đó là một tù nhân 8 tuổi
Anh tâm sự với mỗi người chúng ta:

 

Anh có biết giữa lao tù cay đắng
Rét không quần, không áo, đập hàm răng
Đói! Xương sườn xương sống trồi căng.
ốm không thuốc, thân tàn xem khó chúng
Tôi vẫn có những đêm dài thức trắng
Tạo vần thơ câm lặng anh ơi!
Nghĩ về anh, tôi bỗng muốn có dịp hỏi cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng: Ông nghĩ ra sao về người tù Nguyễn Chí Thiện? Anh Thiện có lẽ trạc tuổi với Phạm Văn Dương con trai duy nhất của ông. Ông có biết trường hợp này không? Nay ông thấy chế độ cần đối xử với anh Thiện ra sao? Có thể có một lời xin lỗi không? Lương tâm ông có yên ổn không? Nếu không hối hận thì cả bài luận văn ông từng viết về Nguyễn Trãi, xin hủy đi cho, xem như không có, vì ông không còn một chút tư cách nào để nói đến tấm lòng kiên dung vằng vặc và lòng nhân ái cao sâu của Nguyễn Trãi cả.

 

 
T/g: Bui Tin
 
*****************************************************

Từ nhiều năm, tổ chức ân Xá Quốc Tế Amnesty International yêu cầu chính phủ Hà nội trả tự do cho anh. Người ta im, không trả lời. Coi như anh không có trên đời. Anh mới được ra tự do năm 1992, có lẽ họ chờ anh chết, nhưng tuy ốm và cực yếu, anh sống đai dẳng bằng nghị lực khác thường. Họ buộc phải trả tự do. Bất đắc dĩ, vì họ rất sợ anh. Một anh bạn ở lâu năm trong ngành luật ở Hà nội sang Paris gặp tôi, nói về chuyện anh được tự do, nhận xét: họ buộc phải thả anh Thiện là do sức ép của quốc tế. ‘Các cụ bị bóp..: (xin lỗi bạn đọc, tôi viết rõ nguyên văn) dái nên mới phải nhả ra đó! Cũng như Cam Bốt cũng thế? Không thì chớ hòng!

Anh là một quả bom ‘nổ chậm’ đối với họ. Ai biết rõ chế độ lao tù cộng sản Việt nam bằng anh? Cả đời anh là hiện thân của một chính sách độc đoán tàn ác mất hết tính người. Anh là hiện thân của một bản cáo trạng lên án chế độ mà không ai bênh vực nổi nữa. Cuộc đời anh khơi dậy sự phần nộ, sự căm giận, sự khinh bỉ đối với cả một chế độ đang suy tàn.

 

Anh chép lại vào vừa đúng 192 bài thơ làm trong gần 20 năm. Đưa cho bạn bè thì dễ lộ, bị tịch thu, bị hủy. Anh nghĩ mãi, phải gửi ra nước ngoài. Hải Phòng là cửa biển, nhưng không một chiếc tàu nào đi ra một nước có ít nhiều tự do. Chỉ đi Tàu, đi Nga. Anh liền lên Hà nội, đi qua ngôi nhà của Đại sứ quán nước Anh. Đi thẳng vào, đưa cả tập thơ cùng một lá thư. Anh bị công an bắt. Lúc ấy là tháng 4 năm 1979. Họ lại bỏ tù anh, vẫn không xét xử, trong hơn 10 năm nữa. Đến tháng 10 năm 1991 anh được tự do. Sứ quán Anh nhất định không trao tập thơ cho chính quyền Việt nam. Họ gửi về Luân Đôn. Và cuốn sách in 192 bài thơ của anh được chào đời, tên tác giả: Khuyết danh. Vì tránh để chế độ độc đoán có cớ để trả thù anh bức thư gửi kèm theo tập thơ, có câu: ‘Từ cuộc đời tan nát của tôi, tôi chỉ có một mơ ước: là được thấy đông đảo người hiểu rõ được rằng chủ nghĩa cộng sản là một tai họa lớn của loài người.’

 

Nguyên văn tiếng Pháp: De ma vie, brisée, il ne reste quun seul rêve, cest de voi le plus grand nombre possible dhommes prendre conscience de ce que le communisme est un grand fléau de l’humanité.

 

Leave a comment